Chuyển Nhượng, Thế Chấp Nhà Đất Trong Hôn Nhân Vợ/Chồng Không Đồng Ý Có Được Không

Mục lục

    1. Quy định về việc định đoạt tài sản chung vợ chồng:

    Căn cứ vào khoản 2 Điều 35 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 (“Luật HNGĐ”):

    Điều 35. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung:

    2. Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong những trường hợp sau đây:

    a) Bất động sản;

    b) Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu;

    c) Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình.

    Theo đó, khi chuyển nhượng, thế chấp hoặc thực hiện giao dịch liên quan đến nhà đất là tài sản chung của vợ chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của hai người. Các văn bản này chính là hợp đồng chuyển nhượng nhà đất, hợp đồng thế chấp nhà đất,… Cụ thể, vợ chồng cùng đứng tên và ký xác nhận là bên chuyển nhượng hoặc bên thế chấp nhà đất.

    Chuyển nhượng nhà là tài sản trước hôn nhân có cần chữ ký của vợ (chồng) không? - Văn phòng công chứng Nguyễn Dũng

    Tuy nhiên một người không cần “có mặt” trong hợp đồng chuyển nhượng/thế chấp nhưng phải có văn bản ủy quyền công chứng cho vợ/chồng của mình được một mình đại diện đứng tên là bên chuyển nhượng/thế chấp theo quy định tại khoản 2 Điều 24 Luật HNGĐ:

    Điều 24. Căn cứ xác lập đại diện giữa vợ và chồng: 

    2. Vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch mà theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng.

    2. Hậu quả khi tự ý chuyển nhượng, thế chấp nhà đất trong hôn nhân:

    Theo quy định tại khoản 2 Điều 13 Nghị định 126/2014/NĐ-CP, khi một người tự ý chuyển nhượng, thế chấp nhà đất là tài sản chung thì vợ/chồng của người này có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu: 

    Điều 13. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chồng:

    2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng định đoạt tài sản chung vi phạm quy định tại Khoản 2 Điều 35 của 
    Luật Hôn nhân và gia đình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch vô hiệu.

    Hậu quả là khi giao dịch bị tuyên vô hiệu là hai bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.

    3. Ngoại lệ:

    Căn cứ vào khoản 3 Điều 24 Luật HNGĐ:

    Điều 24. Căn cứ xác lập đại diện giữa vợ và chồng:

    3. Vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật thì người đó phải tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ có liên quan…

    Do đó, chỉ khi vợ/chồng của người bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự được xác định là người đại diện theo pháp luật/người giám hộ theo quy định pháp luật thì người vợ/chồng này được quyền chuyển nhượng, thế chấp nhà đất mà không cần có sự đồng ý của cả hai vợ chồng. Tuy nhiên, hành động đơn phương này phải vì quyền lợi hợp pháp của người được giám hộ/được đại diện.

    Như vậy, về nguyên tắc, khi chuyển nhượng, thế chấp nhà đất trong hôn nhân phải có sự đồng ý của cả vợ và chồng; trừ trường hợp thuộc diện giám hộ, đại diện theo pháp luật.

    Theo: Nguyễn Hạnh Dung

    Quý Khách hàng và Đối tác có nhu cầu về dịch vụ pháp lý vui lòng liên hệ theo thông tin sau:

    CÔNG TY LUẬT TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN NEW & NEW

    Địa chỉ trụ sở chính: 3A Đồng Nai, Phường 2, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.

    Tổng đài tư vấn: 090.180.6668

    Email: info@newlawfirm.com.vn

    Website: https://newlawfirm.com.vn

    Tin liên quan